Vùng trồng sả
Vùng trồng sả phân bố rộng khắp Việt Nam
Cây sả Còn gọi là cỏ sả, lá sả, sả chanh, hương mao.
Tên khoa học Cymbopogon nardus Rendl (Sả chanh).
Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Sả là loại cỏ sống lâu năm, mọc thành bụi, cao 0,8-1,5m hay hơn. Thân rễ trắng hay hơi tím. Lá hẹp, dài giống như lá lúa, mép hơi nháp. Cụm hoa gồm nhiều bổng nhỏ không cuống. Toàn cầy có mùi thơm đặc biệt mùi sả. Trồng làm thuốc, người ta ít phân biệt sả này với sả khác, nhưng khi trồng để cất tinh dầu người ta phân biệt sả ra hai nhóm có tinh dầu có giá trị khác hẳn nhau:
- Nhóm sả cho tinh dầu với thành phần chủ yếu là Citronellol và genarìola (citronnelle). Trong nhóm này có loài Cymbopogon winterianus, Cymbopogon nardus (L.) Rendl. (Andropogon nardus) có hàm lượng tinh dầu cao và chất lượng tốt nhất, sau đấy đến cây sả Cymbopogon confertiflorus Stapf cho ít tinh dẩu hơn, chất lượng cũng kém hơn.
- Nhóm sả cho tỉnh dầu với thành phần chủ yếu là xừrala (Lemon grass-Verveine des Jndes) làm tinh dầu có mùi chanh rất rõ. Đứng đầu nhóm sả này là sả Cymbopogon flexuosus (Andropogon flexuosus Nees), sau đến loài Cymbopogon ciiratus Stapf, (Andropogon Schoenanthus L.).
Ngoài hai nhóm này còn một số loài sả cho tinh dầu có thành phần khác hẳn mặc dầu về hình thái và giải phẫu rất khó phân biệt như loài sả Cymbopogon martinii (Roxb.) Wats, thì thứ motìa cho tinh dầu gọi là essence Palma rosa hay Geranium des Indes chứa tói 75-95% geraniola, còn thứ Sofia lại cho một thứ tinh dầu không chúa geraniola mà lại chỉ có ancol perilic.
Nhân dân ta dùng rễ và toàn cây tươi khô. Hoạt chất của sả như thế nào hiện chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Chỉ mới biết trong sả có 1 đến 2% tinh dẩu.
Tùy theo loài sả, thành phần của tinh dầu thay đổi và có giá trị khác nhau. Tinh dầu sả cất từ cày sả Cymbopogon nardus (L.) Rendl. (sả Xrilanca) và cây Cymbopogon winterianus Jowitt (sả Giava) có từ 20 đến 40% geraniola và citronellola, 40 đến 60% xitronellala. Loài thứ hai được trồng nhiều ở Giava, Đài Loan, Trung Mỹ (Guatemala), Ghinê, Mangat. Tinh dầu sà cất từ cây sả chanh Cymbopogon flexuosus và c. citratus chứa từ 70 đến 80% xitral. Loại sả chanh này được trồng nhiều ở Ân Độ, Mangat, đảo Como, Trung Mỹ (Guatemala), châu Phi ( Côngô, Kenya). Tinh dầu sả cắt từ loài Cymbopogon martinii var. motia chứa 75-95% geraniola còn var. Sofia chứa ancol perilic.
Tinh dấu sả dùng làm thuốc giúp tiêu hóa, đuổi muỗi, còn dùng trong công nghiệp chất thơm, làm nước hoa, xà phòng thơm…Lá sả dùng pha nước uống cho mát và tiêu. Củ sả có tác dụng thông tiểu tiện, ra mồ hối, chữa cảm sốt.